Lực lượng hai bên Không_chiến_tại_Anh_Quốc

Không quân Đức đã phải đối mặt với một đối thủ mạnh nhất mà họ từng phải đối mặt, cả về quy mô, khả năng phối hợp cao, được cung cấp tốt, và tính hiện đại.

Máy bay tiêm kích

Máy bay Messerschmitt Bf 109E-4.

Những chiếc Messerschmitt Bf 109EBf 110C của không quân Đức đối đầu với máy bay Hurricane Mk I và một số lượng ít hơn các máy bay Spitfire Mk I của Anh. Loại máy bay Bf 109E có tốc độ lên cao tốt hơn và nhanh hơn từ 16 đến 48 km/h so với Hurricane Mk II, tùy thuộc vào độ cao.[61] Trong mùa xuân và mùa hè năm 1940, các máy bay tiêm kích của RAF đã có lợi thế khi lượng nhiên liệu Octan 100 sẵn có tăng lên, cho phép các động cơ Merlin tạo ra nhiều hơn đáng kể năng lượng thông qua việc sử dụng một Năng lượng Chiến tranh Khẩn cấp.[62][63][64] Trong tháng 9 năm 1940, những chiếc Hurricane Mk IIa loại 1 đã bắt đầu đi vào phục vụ dù chỉ với số lượng nhỏ.[65] Phiên bản này có thể đạt tốc độ tối đa 550 km/h, nhanh hơn so với phiên bản Mk I khoảng từ 40 đến 48 km/h.[66]

Thành tích của các máy bay Spitfire trong cuộc sơ tán tại Dunkirk đã khiến cho lực lượng tiêm kích của Luftwaffe (Jagdwaffe) phải bất ngờ, dù các phi công Đức vẫn tin chắc rằng Bf 109 là loại máy bay tiêm kích ưu việt.[67] Tuy nhiên, những chiếc Bf 109E có vòng hồi chuyển lớn hơn nhiều so với cả Hurricane lẫn Spitfire,[68] động cơ phun nhiên liệu của nó cho phép vượt thoát khỏi đối phương tấn công dễ dàng hơn so với các máy bay sử dụng bộ chế hòa khí của Anh. Cả hai loại tiêm kích của Anh đều được trang bị 8 súng máy Browning 303 (7,7 li), còn hầu hết máy bay Bf 109E có 2 súng máy 7,92 li và thêm 2 pháo cánh 20 li. Súng của Đức tỏ ra hiệu quả hơn so với loại Browning 303 của Anh, vốn chỉ phù hợp cho thời kỳ đầu của kỷ nguyên không chiến. Có rất nhiều máy bay Đức trở lại căn cứ khi đã bị trúng nhiều phát đạn từ súng Browning 303 mà vẫn không bị phá hủy. Bf 109E và Spitfire chiếm ưu thế lẫn nhau trong các khía cạnh chủ chốt; thí dụ, với một số độ cao, loại Bf 109 có thể vượt lên trên các tiêm kích Anh. Tuy vậy, nhìn chung, như Alfred Price đã viết trong Câu chuyện Spitfire (The Spitfire Story):

...sự khác biệt giữa Spitfire và Me 109 về hoạt động và điều khiển chỉ là bề ngoài, và trong một cuộc chiến chúng hầu như bị mờ nhạt bởi những tính toán chiến thuật: bên nào nhận ra đối phương trước, có lợi thế về mặt trời, độ cao, số lượng, khả năng của phi công, tình thế chiến thuật, sự phối hợp chiến thuật, lượng nhiên liệu còn lại, v.v.
— [69]

Máy bay Bf 109 còn được sử dụng làm kiểu mẫu máy bay tiêm kích-ném bom hỗn hợp E-4/B và E-7, có thể mang một quả bom 250 kg bên dưới thân máy bay. Máy bay Bf 109, không giống như loại Stuka, có thể chiến đấu trong cùng điều kiện với các tiêm kích của RAF, sau khi đã thả hết cơ số bom của nó.[70][71]

Vào thời điểm bắt đầu cuộc chiến, máy bay Messerschmitt Bf 110 hai động cơ tầm xa Zerstörer ("Khu trục") cũng được huy động để tiến hành các cuộc giao tranh không đối không trong khi hộ tống hạm đội ném bom của Luftwaffe. Mặc dù Bf 110 nhanh hơn Hurricane và gần đuổi kịp Spitfire, nó vẫn thiếu tính linh hoạt và gia tốc để đóng vai trò một máy bay tiêm kích hộ tống tầm xa. Trong các ngày 13 và 15 tháng 8, 13 và 30 máy bay này đã bị mất, tương đương một Nhóm (Gruppe) đầy đủ, và là loại máy bay bị thiệt hại nhiều nhất trong chiến dịch.[72] Chiều hướng này vẫn tiếp tục với thêm 8 và 15 chiếc bị mất trong các ngày 16 và 17 tháng 8.[73] Göring đã ra lệnh cho các đơn vị Bf 110 phải hoạt động "tại những nơi mà tầm bay của các cỗ máy một động cơ không thể với tới".

Đóng vai trò thành công nhất trong các loại Bf 110 của trận này là Schnellbomber (máy bay ném bom nhanh). Bf 110 thường dùng đòn bổ nhào thấp để oanh tạc mục tiêu rồi tẩu thoát bằng tốc độ cao.[74][75] Một đơn vị, Erprobungsgruppe 210, đã cho thấy rằng Bf 110 có thể đạt hiệu quả đối với các mục tiêu nhỏ hay đòi hỏi sự chính xác cao.[74]

Máy bay Boulton Paul Defiant của RAF có được một số thành công ban đầu tại Dunkirk[76] do giống với Hurricane; các máy bay tiêm kích của Luftwaffe tấn công từ sau lưng đã bị bất ngờ trước những tháp súng hiếm có của nó. Thế nhưng, trong Trận chiến nước Anh, loại máy bay một động cơ hai chỗ ngồi này tỏ ra bị lép vế một cách vô vọng. Do nhiều nguyên nhân, Defiant không có bất kỳ hình thức vũ khí nào bắn về phía trước và pháo hạng nặng cũng như phi công lái phụ, có nghĩa là nó không thể vượt qua về tốc độ và tính cơ động so với cả Bf 109 lẫn Bf 110. Đến cuối tháng 8, sau những thiệt hại khủng khiếp, loại máy bay này đã được rút khỏi các công tác ban ngày.[77][78]

Đã có những lời chỉ trích quyết định tiếp tục sử dụng các máy bay này (cùng với Fairey Battle thuộc Bộ tư lệnh Ném bom RAF) thay vì cho ngừng hoạt động và thải hồi chúng, để cho các động cơ Merlin của chúng chuyển sang máy bay tiêm kích và các phi công được tái đào tạo trên những chiếc Hurricane, nhờ đó giải phóng được một số lượng lớn các phi công Hurricane có thâm niên và nhiều kinh nghiệm chiến đấu sang cho loại máy bay Spitfire.[78] Tuy nhiên trong năm 1940 vẫn có 739 máy bay Battle làm công tác huấn luyện tại Canada; ngoài ra, Bộ Tư lệnh Ném bom vẫn sử dụng máy bay Battle vào việc tấn công các cảng biển của đối phương vào ban đêm và 3 đội bay Battle đã được chuyền giao cho Bộ Tư lệnh Duyên hải.[79][80]

Các đội hình tiêm kích

Hình ảnh trong đoạn phim quay từ máy bay cho thấy đường đạn từ một chiếc Supermarine Spitfire Mark I thuộc đội bay số 609 của RAF, do J. H. G. McArthur lái, bắn trúng mạn phải một máy bay Heinkel He 111, ngày 25 tháng 9 năm 1940.

Cuối thập niên 1930, Bộ tư lệnh Tiêm kích dự tính rằng sẽ chỉ phải đối phó với các máy bay ném bom trên không phận Anh quốc, chứ không xét đến các máy bay tiêm kích một động cơ. Theo tư duy đó, một loạt các "chiến thuật chiến đấu khu vực" đã được xây dựng và tuân thủ một cách cứng nhắc, dẫn đến một chuỗi những cuộc diễn tập nhằm tập trung hỏa lực của một đội bay để bắn hạ các máy bay ném bom: không có mối lo rõ rệt nào về các máy bay tiêm kích hộ tống, các phi công tiêm kích của RAF bay theo những đội hình 3 máy bay theo hình chữ V chặt chẽ. Điều này hạn chế các đội bay trong các cơ cấu 12 máy bay gồm 4 đội bay theo các chữ "V" khác nhau. Với kiểu cơ cấu này, chỉ có chỉ huy đội bay ở phía trước là có thể tự do quan sát đối phương; những phi công khác phải tập trung chú ý để giữ đúng đội hình.[81] Các bài tập luyện của máy bay tiêm kích của RAF cũng nhấn mạnh vào việc tấn công theo lý thuyết bằng cách tách rời ra theo thứ tự. Bộ tư lệnh Tiêm kích đã sớm nhận ra điểm yếu của cấu trúc xơ cứng này trong cuộc chiến, nhưng họ thấy rằng quá mạo hiểm khi thay đổi chiến thuật giữa chừng, do những phi công thay thế – thường chỉ có thời gian bay tối thiểu – không thể dễ dàng mà huấn luyện lại,[82] và những phi công RAF không có kinh nghiệm cần có sự điều khiển vững vàng ở trên không mà chỉ có những cơ cấu xơ cứng mới đem lại được.[83] Phi công Đức đã đặt tên đội hình của RAF là Idiotenreihen ("những dãy hàng ngu ngốc") vì các đội bay của họ ở vào tư thế rất dễ bị tổn thương khi tấn công.[84][85]

Ngược lại, Luftwaffe triển khai một đội bay lỏng lẻo với 2 máy bay (biệt hiệu là Rotte), dựa vào một người hướng dẫn (Rottenführer) theo sau với khoảng cách khoảng 183 mét[gc 16] bằng máy bay yểm trợ (biệt hiệu Rottenhund hay Katschmareks) mà bay hơi cao hơn và được huấn luyện để luôn luôn bay cùng với người hướng dẫn của mình. Trong khi hướng dẫn viên tự do săn tìm máy bay đối phương, và có thể che phủ "vùng mù" của máy bay yểm trợ, thì máy bay yểm trợ có thể tập trung vào việc theo dõi khoảng không nằm trong vùng mù của người hướng dẫn, ở phía sau và bên dưới. Máy bay tấn công có thể bị kẹp giữa 2 chiếc Bf 109.[87] Đội hình này được phát triển dựa trên những nguyên tắc được công thức hóa bởi viên phi công xuất sắc thời chiến tranh thế giới thứ nhấtOswald Boelcke vào năm 1916. Từ năm 1934, Không lực Phần Lan đã triển khai những đội hình tương tự, gọi là partio (1 đội tuần tra; 2 máy bay) và parvi (2 đội tuần tra; 4 máy bay)[88] vì những lý do tương tự, tuy vậy những phi công của Luftwaffe (tiêu biểu là Günther LützowWerner Mölders trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha) nói chung vẫn được biết đến nhiều hơn.

Trong các đội hình của Luftwaffe, các cặp máy bay cho phép Rottenführer tập trung vào nhiệm vụ tiêu diệt đối phương. Tuy nhiên, khía cạnh thứ hai này đã gây nên một số bất bình trong hàng ngũ sĩ quan cấp thấp vì họ cảm thấy rằng thành tích cao của một số Rottenführer phải trả giá bằng sự hy sinh của các Katschmareks. Trong Trận chiến nước Anh, một phi công bắn hạ được 20 máy bay sẽ được tặng thưởng Huân chương Chữ thập Kỵ sĩ (Ritterkreuz), gắn thêm Lá sồi, Thanh gươm và Kim cương cho mỗi 20 máy bay thêm sau đó. Những phi công mà tỏ ra khao khát có được phần thưởng này bị nói là đang bị viêm họng (Halsweh), một sự ám chỉ có tính quy ước về việc đeo huân chương ở cổ. Chỉ một số ít máy bay yểm trợ trong đội hình tiêm kích của Luftwaffe có thể bắn hạ máy bay đối phương, trong khi những máy bay hướng dẫn thì ghi điểm rất cao.[89]

Hai trong số những đội hình bay này thường được hợp thành một Schwarm (phi đội), trong đó toàn bộ các phi công có thể quan sát được những gì diễn ra xung quanh họ. Mỗi Schwarm trong một Staffel (phi đoàn) bay ở những độ cao thay đổi và cách nhau 183 mét, tạo nên đội hình khó phát hiện ở khoảng cách xa hơn và cho phép họ có tính linh hoạt rất lớn.[86] Bằng cách sử dụng kiểu quay vòng giao cắt chặt chẽ, một Schwarm có thể thay đổi hướng bay một cách nhanh chóng.[87]

Các máy bay tiêm kích Bf 110 đã áp dụng những đội hình Schwarm tương tự như các loại máy bay Bf 109, nhưng ít khi có thể triển khai trong cùng điều kiện. Khi tấn công, các "nhóm tiêm kích" (Zerstörergruppen) đã được tăng cường sử dụng để tạo nên những "vòng tròn phòng thủ" lớn. Mỗi chiếc Bf 110 canh chừng phía đuôi của máy bay bay đằng trước nó. Göring sau đó đã ra lệnh đổi tên thành "vòng tròn tiến công" trong một nỗ lực vô vọng nhằm nâng cao tinh thần chiến đấu đang bị suy sụp nghiêm trọng.[90] Những đội hình đáng chú ý này thường thành công trong việc thu hút các máy bay tiêm kích của RAF mà thỉnh thoảng vẫn bị các máy bay Bf 109 bay cao "dồn ép". Điều này đã dẫn đến câu chuyện thêu dệt được nhắc đi nhắc lại rằng các máy bay Bf 110 được hộ tống bởi máy bay Bf 109. Phương pháp tấn công thành công nhất của máy bay Bf 110 là "dồn ép" từ phía trên.

Các phi công mặt trận của RAF đã nhận thức được sâu sắc về những khiếm khuyết cố hữu trong chiến thuật của mình. Một sự thỏa hiệp đã được thông qua, theo đó các đội bay sẽ sử dụng những đội hình bay lỏng lẻo hơn nhiều với 1 hoặc 2 máy bay bay ngay phía trên và phía dưới để tăng cường khả năng quan sát cũng bảo vệ sau lưng; vị trí này dành cho những người có ít kinh nghiệm nhất, và thường bị bắn hạ đầu tiên trong khi các phi công khác thậm chí còn không thấy họ bị tấn công.[84][91] Trong cuộc chiến này, đội bay số 74 của RAF dưới quyền chỉ huy của Adolph Malan đã áp dụng một biến thể của đội hình máy bay Đức với "bốn máy bay ở tuyến sau", là một cải tiến lớn so với đội hình chữ V 3 máy bay cũ. Đội hình của Malan sau này đã được Bộ tư lệnh Tiêm kích sử dụng rộng rãi.[92]

Máy bay ném bom

Bức ảnh tuyên truyền của Đức cho thấy một máy bay Spitfire I bay rất gần một chiếc Dornier 17Z.[gc 17]

Bốn loại máy bay ném bom chính của Luftwaffe là Heinkel He 111, Dornier Do 17, Junkers Ju 88 cho đòn ném bom rải thảm, và Junkers Ju 87 Stuka với kiểu tấn công bổ nhào. Máy bay Heinkel He 111 được sử dụng với số lượng lớn hơn các loại khác và được biết đến nhiều hơn, một phần là do hình dạng cánh khác biệt của nó. Mỗi loại máy bay ném bom rải thảm đều có một số ít được dùng làm công tác do thám trong trận chiến.[93]

Mặc dù rất thành công trong các cuộc chiến trước đó của Luftwaffe, máy bay Stuka đã phải chịu những thiệt hại nặng nề trong Trận chiến nước Anh, đặc biệt là vào ngày 18 tháng 8, do tốc độ chậm và dễ bị máy bay tiêm kích chặn đánh sau khi thực hiện đòn ném bom bổ nhào. Do những thiệt hại cũng như giới hạn về trọng tải và tầm bay, các đơn vị Stuka phần lớn đã bị rút ra khỏi các hoạt động trên bầu trời Anh quốc và tập trung vào việc vận tải cho đến khi được tái triển khai tại Mặt trận phía Đông năm 1941. Chúng chỉ trở lại vào một số dịp, như cuộc tấn công ngày 13 tháng 9 tại sân bay Tangmere.[94][95][96]

Ba loại máy bay ném bom còn lại có khác biệt về khả năng; máy bay Heinkel 111 là loại chậm nhất; Ju 88, một khi đã thả hết tải trọng bom chính của nó, là loại nhanh nhất, và Do 17 có tải trọng bom nhỏ nhất.[93] Cả ba loại máy bay ném bom này đều đã phải chịu những tổn thất nặng nề do máy bay tiêm kích Anh, riêng Ju 88 là ít hơn. Các máy bay ném bom đã yêu phải có sự bảo vệ liên tục từ phía tiêm kích, nhưng Đức không có đủ máy bay Me-109 để yểm trợ cho hơn 300-400 máy bay ném bom.[97] Cuối cuộc chiến, khi mà việc ném bom ban đêm trở nên thường xuyên hơn, cả ba loại máy bay này đều được sử dụng. Tuy nhiên, do tải trọng bom hạn chế nên Do 17 ít được dùng đến hơn He 111 và Ju 88 cho nhiệm vụ này.

Về phía Anh, ba loại máy bay ném bom được sử dụng chủ yếu trong các hoạt động ban đêm nhằm chống lại các mục tiêu như nhà máy, các bến cảng địch và trung tâm đường xe lửa là Armstrong Whitworth Whitley, Handley-Page HampdenVickers Wellington được RAF phân vào loại máy bay ném bom hạng nặng, mặc dù máy bay Hampden là máy bay ném bom hạng trung tương tự như He 111. Cả máy bay hai động cơ Bristol Blenheim lẫn máy bay một động cơ kiểu cũ Fairey Battle đều là máy bay ném bom hạng nhẹ; máy bay Blenheim là loại được trang bị nhiều nhất cho Bộ tư lệnh Ném bom RAF và được dùng để tấn công các tàu thuyền, bến cảng, sân bay và nhà máy trên lục địa cả ngày lẫn đêm. Các đội bay Fairey Battle, vốn đã chịu những thiệt hại nặng nề trong những công tác ban ngày trong Trận chiến nước Pháp, được bổ sung lực lượng bằng các máy bay dự bị và tiếp tục hoạt động trong các cuộc tấn công đêm tại các bến cảng của đối phương cho đến khi bị rút khỏi mặt trận Anh Quốc vào tháng 10 năm 1940.[98][gc 18]

Phi công

Trước chiến tranh, quá trình lựa chọn những ứng viên tiềm năng của RAF quan tâm nhiều về địa vị xã hội hơn là năng lực thực tế.[100] Nhưng đến năm 1936, RAF đã cho tiến hành những biện pháp nhằm lựa chọn ra những ứng viên tiềm năng từ đủ mọi tầng lớp xã hội qua Lực lượng Dự bị Tình nguyện của RAF vốn "...được thiết kế để lôi cuốn, tới...những người trẻ tuổi...không phân biệt tầng lớp..."[101] Tuy các đội bay cũ của Không lực Phụ trợ Hoàng gia Anh vẫn giữ lại một số đặc quyền của tầng lớp trên[100] nhưng họ đã sớm bị lấn át về số lượng bởi những tân binh của Lực lượng Dự bị Tình nguyện và đến ngày 1 tháng 9 năm 1939, đã có 6.646 phi công được huấn luyện tại đó.[102] Cho đến mùa hè năm 1940, đã có khoảng 9.000 phi công trực thuộc RAF với xấp xỉ 5.000 máy bay, hầu hết là máy bay ném bom. Bộ tư lệnh Tiêm kích không hề thiếu phi công, tuy nhiên, vấn đề thiếu hụt các phi công tiêm kích đã qua huấn luyện toàn diện vẫn diễn ra, do sự thiếu hiệu quả của công tác huấn luyện và phân công, và vấn đề này đã trở nên hóc búa cho đến giữa tháng 8 năm 1940.[103]

Trong toàn cuộc chiến, các phi công trẻ "hầu như chẳng có chút cơ hội nào" để sống sót trong 5 lần xuất kích đầu tiên, không chỉ vì thiếu kinh nghiệm chiến đấu mà còn do họ phải nhận lái các máy bay hỏng hóc nhiều nhất và ít đáng tin cậy nhất, chưa kể họ chỉ phù hợp với vị trí xạ thủ ở đuôi máy bay trong đội hình và như thế rất dễ bị tổn thương. Đối với những người sống sót, tỉ lệ sống sót tăng thêm 15 phi vụ tiếp theo cùng với kĩ năng và sự tự tin của họ. Tuy nhiên, sau 20 phi vụ thì tỉ lệ đó lại một lần nữa tụt xuống bằng 0.[104]

Trong khi sản lượng máy bay là 300 chiếc mỗi tuần, thì chỉ có 200 phi công được đào tạo trong cùng khoảng thời gian đó. Bù lại, số phi công được phân phối cho các đội bay nhiều hơn số máy bay hiện có, cho phép các đội bay duy trì sức mạnh tác chiến cho dù có bị thương vong và vẫn có thể cho phi công nghỉ phép.[105] Một vấn đề khác là chỉ có khoảng 30% trong số 9.000 phi công được điều về các đội bay tác chiến; 20% số phi công được tham gia vào khóa huấn luyện phi công chỉ huy, và thêm 20% trải qua khóa huấn luyện nâng cao, giống như những phi công RAF đến từ CanadaNam Rhodesia trong số những phi công thuộc Khối thịnh vượng chung Anh, mặc dù đã đủ năng lực chuyên môn. Phần còn lại được xếp vào các vị trí tham mưu, do chính sách của RAF quy định rằng chỉ các phi công mới có khả năng tham mưu và ra quyết định chỉ huy tác chiến, ngay cả với những vấn đề kỹ thuật. Vào đỉnh điểm của cuộc chiến, mặc dù Churchill ra sức vận động, nhưng chỉ có 30 phi công được giải phóng khỏi nhiệm vụ hành chính để đưa ra tiền tuyến.[106][gc 19]

Vì những nguyên nhân này, cũng như vì tổn thất 435 phi công trong Trận chiến nước Pháp[42] và những thiệt hại khác trong chiến dịch Na Uy, RAF có ít phi công có kinh nghiệm chiến đấu hơn Đức vào đầu cuộc chiến, và thiếu thốn những phi công đã qua huấn luyện trong những đội bay chiến đấu, hơn là thiếu máy bay, điều này trở thành mối quan tâm lớn nhất của Thống chế Không quân Hugh Dowding, tư lệnh Bộ tư lệnh Tiêm kích. Lấy từ lực lượng chính quy của RAF, Không lực Phụ trợ Hoàng gia và lực lượng dự bị tình nguyện, người Anh đã tập hợp được 1.103 phi công tiêm kích vào ngày 1 tháng 7. Các phi công thay thế ít được đào tạo bay và thường không có huấn luyện tác xạ, đã phải chịu tỉ lệ thương vong rất cao.[84]

Nhờ công tác đào tạo hiệu quả hơn, Luftwaffe có thể tập hợp được một số lượng lớn hơn (1.450) các phi công tiêm kích nhiều kinh nghiệm.[106] Dựa vào các cựu binh của cuộc nội chiến Tây Ban Nha, họ đã có những khóa học toàn diện về tác xạ trên không và được hướng dẫn chiến thuật thích hợp trong cuộc chiến tiêm kích đấu tiêm kích.[86] Các khóa huấn luyện của Luftwaffe cũng ngăn cấm chủ nghĩa anh hùng, nhấn mạnh tầm quan trọng tuyệt đối của việc chỉ tấn công khi nào phi công có được lợi thế. Thế nhưng các đội hình tiêm kích của Lufwaffe không có được lực lượng phi công dự bị đầy đủ để cho phép bù đắp các thiệt hại[105] và họ cũng không thể đào tạo đủ phi công để ngăn chặn việc sức mạnh chiến đấu bị suy sụp dần khi cuộc chiến tiếp diễn.

Sự tham gia của quốc tế

Máy bay thứ 126 của Đức được các phi công Ba Lan thuộc đội bay 303 xác nhận trong trận chiến.

Cả hai bên tham chiến đều đã nhận được những sự trợ giúp đáng kể từ bên ngoài trong cuộc chiến này.

Đồng minh

Hồ sơ vinh danh của Không quân Hoàng gia Anh trong Trận chiến nước Anh ghi nhận có 595 phi công không phải người Anh (trong tổng sốd 2.936) đã tham gia ít nhất một phi vụ chiến đấu được phép cùng một đơn vị đúng tư cách của RAF hay Binh chủng Không lực Hải quân từ ngày 10 tháng 7 cho đến ngày 31 tháng 10 năm 1940.[107][108] Trong đó bao gồm 145 người Ba Lan, 127 người New Zealand, 112 người Canada, 88 người Tiệp Khắc, 28 người Bỉ, 32 người Úc, 25 người Nam Phi, 13 người Pháp, 10 người Ireland, 7 người Mỹ, và Jamaica, Palestine, Nam Rhodesia mỗi nơi thêm 1 người.[109]

Phe Trục

Có một bộ phận Không lực Hoàng gia Ý (Regia Aeronautica) gọi là Quân đoàn Không quân Ý (Corpo Aereo Italiano hay CAI) lần đầu tiên hoạt động vào cuối tháng 10 năm 1940. Nó đã tham gia vào giai đoạn sau của cuộc chiến, nhưng chỉ thu được những kết quả hạn chế. Đơn vị này đã được tái triển khai vào đầu năm 1941.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Không_chiến_tại_Anh_Quốc http://www.airforce.forces.gc.ca/v2/hst/page-eng.a... http://www.rcaf-arc.forces.gc.ca/v2/hst/page-eng.a... http://www.nfb.ca/playlist/its-oscar-time/viewing/... http://battleofbritainblog.com http://www.celebratebritain.com/ http://airlandseaweapons.devhub.com/blog/61173-fai... http://www.economist.com/blogs/easternapproaches/2... http://www.firstworldwar.com/bio/ashmore.htm http://www.life.com/image/first/in-gallery/24892/w... http://spitfiresite.com/2010/04/battle-of-britain-...